Tha Hương Ngộ Cố Nhân
Tha Hương Nhộ Cố Nhân - Phần 1 <-- Bấm vào đây để xem Phần 1.
Bút Ký - Phần 2
Căn nhà nhỏ nghèo nàn chật hẹp có cái gác xép bằng ván mỏng của ba má tôi trong con hẻm đường Đỗ Thành Nhân vẫn ngày ngày đón chứa đám bạn tôi: Trần Tấn Vu Long, Đặng Ngọc Ẩn, Lưu Ngọc Diệp, Đỗ Vinh, …
Má tôi bương chải một mình nuôi bầy con sáu đứa, cộng thêm mấy thằng bạn tôi nữa gần như hàng ngày. Ra trường đa số đi lính. Quân đội có lẽ là môi trường thích hợp cho lứa tuổi chúng tôi vừa độ “quân dịch”. Bùi Văn Tấn được miễn vĩnh viễn vì lý do con một. Anh lấy cử nhân khoa học rồi làm Giảng Nghiệm Viên ở Đại Học Khoa Học. Đặng Ngọc Ẩn cũng miễn dịch vĩnh viễn vì lý do sức khoẻ. Hắn hên vào làm Air Vietnam cho tới ngày “đứt phim”. Khi đóng lính ngoài Quân Đoàn II, mỗi lần từ Sài Gòn trở lại đơn vị, tôi chỉ cần mua vé máy bay không ghi ngày đi, vác ba lô lên phi trường kiếm anh ta ở Operation Air Vietnam. Đợi chút Ẩn sẽ lo mọi thủ tục bay liền trong ngày. Trần Tấn Vu Long, nhờ có chiếc dù rộng ở Quân Đoàn IV, nên anh ta không được bắn phát súng nào gần hết cuộc đời binh nghiệp. Từ Cần Thơ về Bộ Tổng Tham Mưu rồi tiểu khu Gia Định làm Đại Đội Trưởng Địa Phương Quân. Thử tưởng tượng “bò tam” Bộ Tổng Tham Mưu mà có Jeep chạy. Lưu Ngọc Diệp nhà bên kia cầu Tân Thuận, căn nhà sàn dựng trên con rạch nước lợ thông ra Sài Gòn. Chúng tôi thường tụ đó bơi lội, leo bần, bình bát hái trái. Diệp đăng Quân Cảnh. Năm vợ tôi sanh cháu gái đầu lòng, Diệp lọc cọc chiếc xe đạp cũ tới thăm với hai hộp sữa Con Chim làm quà. Năm 1973 Diệp có thời làm Tiểu Đội Trưởng Quân Cảnh điều tra Tư Pháp Vũng Tàu. Hậu cứ đơn vị tôi ở Long Bình, tới đó đón trực thăng về đơn vị trên An Lộc, rồi tôi rủ vài tên nữa ra quốc lộ, đón xe đi Vũng Tàu tìm Diệp để tha hồ bù khú. La Văn Bé, Võ Quang Liêm chui vào “Phủ Đầu Rồng”. Bé nhà bên Quận 8, căn nhà ở đã mấy chục năm mà không được “sổ đỏ”. Các con của Bé trưởng thành lần lượt lập gia đình ra riêng. Giờ còn vợ chồng già, vợ Bé bị tai biến mạch máu não, nằm liệt từ hơn năm năm nay. Trước 1975, Bé ngồi gõ bàn phiếm máy chữ diễn văn của “Tông Tông”, bây giờ có đâu lương hưu độ nhật cho hai thân già rã rời bệnh hoạn. Tạ Văn Thinh đăng Không Quân, anh ra phi trường Đà Nẵng, rồi về phi trường Biên Hòa gần Sài Gòn, ngày hai buổi đi làm như công chức, anh ký cóp mang từng vật liệu nhỏ kiếm được trong đơn vị có thể chở bằng xe gắn máy Honda, tu bổ cho tổ ấm của gia đình.
Toản, anh bạn nhỏ con, xông xáo và nhanh nhẹn trên sân cỏ. Nhà Toản trong khuôn viên trường Petrus Ký nhìn ra sân vận động. Ba Toản là công chức lâu năm của Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau này anh chuyển về trường Petrus Ký. Phạm Như Ý ở nhà ngay chợ Xóm Chiếu gần nhà tôi trong hẻm. Năm 1974 anh, từ Trung Đoàn 24 trên Cao Nguyên, được giải ngũ loại hai về làm phó thường dân. Anh lập gia đình rồi sống với bên vợ dưới Long Xuyên. Năm 2007 chúng tôi tái ngộ anh. Từ Cầu Chắc cà đao ngồi xe ôm thêm 5 km trên con đường hẹp tráng xi măng lồi lõm ổ gà mới tới nhà anh. Cư dân nơi đây có nhiều người không biết “hủ tiếu, phở” là gì, dù không xa thị phố mấy. Các em nhỏ làm việc thật cực nhọc, 12, 13 tuổi cõng gạch từ nhà kho dọc bờ sông xuống ghe. Cả ngày trời chỉ kiếm được vài chục ngàn ít ỏi. Ý, nay đã thành một nông dân già, hiền lành chất phát, không bon chen đua đòi. Vợ anh thật giỏi, quán xuyến, xếp đặt mọi công việc, thu nhập từ hai lò gạch cho sinh hoạt gia đình.
Tô Anh Võ và Lâm Minh Chiếu là dân con nhà giàu, học giỏi. Cả hai đều du học Pháp. Võ học xong Nha Sĩ về nước mở phòng mạch ngay sau căn biệt thự của thân sinh đối diện Hội Việt Mỹ trên đường Mạc Đỉnh Chi. Có lần tôi tới tìm Võ vào buổi chiều nhân một lần nghỉ phép Sài Gòn, sẵn vắng khách Võ bứng một lúc hai cái răng cửa sún của thằng con trai 3 tuổi của tôi. Em của Võ, Tô Anh Nhã cũng dân Võ Trường Toản và cầu thủ túc cầu, mất tích trong chiến tranh. Năm 1983 tình cờ gặp Võ trong một phòng khám nha khoa của Y Tế Phường trên đường Nguyễn Khoái. Võ cho biết phải núp dưới bóng “Y Tế Phường” để chờ thời. Năm 2000 chúng tôi tái ngộ anh ở Việt Nam, nhưng vợ và phần đông các con đã qua Mỹ. Cậu trai lớn cũng ra Nha Sĩ, và hai cha con cùng mở phòng mạch trên đường Nơ Trang Long (Gia Định cũ). Nhà Lâm Minh Chiếu ở Bến Vân Đồn, Quận 4, là địa điểm một hãng làm nước mắm. Ngày anh lên đường đi Pháp, tôi tìm đến gửi cho ông nhạc gia bịch thuốc lá Bastoz xanh mà khi ở nhà ông thường hút và quyển Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng. Ngày về lại Việt Nam năm 1969 ông cầm đưa lại tôi quyển sách cũ, kỷ niệm những ngày xa quê hương. Chiếu ở luôn tại Pháp; bây giờ thỉnh thoảng thấy tên anh trong danh sách Việt kiều về xây những cầu xi măng bắc qua các con rạch nhỏ trong thôn làng nghèo hẻo lánh xa xăm vùng miền Tây sông nước.
Tôi thấy hình Nguyễn Văn Kiệt trong danh sách thành viên lớp A niên khóa 1955-1962 trên http://www.votruongtoansg.org, ủa anh ta không bị đi “HO” sao? Ốm cao, áo bỏ trong quần, ủi thẳng boon, tóc chải gọn gàng, xe đạp láng o, hiền lành mẫu mực. Hồi mới nhập trường chúng tôi gọi Kiệt là “Kiệt thầy giáo”. Năm 1966 tôi gặp Kiệt trong Tổng Cục Tiếp Vận, Phòng Vận Chuyển, Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi vào đó xin phương tiện ra Qui Nhơn. Anh đang ở Qui Nhơn, Phòng Tổng Quản Trị, Đơn Vị II Tiếp Vận, anh vẫn như cũ, cao gầy, giọng nói nụ cười thật hòa nhã, nhỏ nhẹ, tóc chải gọn gàng bẩy ba, quân phục ủi hồ chỉnh tề, giầy bốt quân nhu bóng láng, y chang “Kiệt thầy giáo” năm xưa. Anh đi phép ở Sài Gòn, còn độc thân, nhà ba má ở Cư Xá Chí Hòa. Anh dắt tôi vào nhân viên phần hành, giới thiệu. Một nữ quân nhân chân dài trẻ đẹp xem ra rất có cảm tình với Kiệt, công việc xong trong 10 phút. Anh ghi địa chỉ ngoài Qui Nhơn cho tôi rồi chia tay.
Tuần sau tôi và người bạn nữa tới tìm Kiệt trong căn phòng nhỏ đường Tăng Bạt Hổ, ở với anh vài ngày, ăn cơm trưa chiều ở một “quán cơm công chức”, tối tối ngồi phòng trà Bồng Lai trên đường Võ Tánh do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ làm bầu, có cô ca sĩ Thúy Nga vừa hát vừa đàn Accordeon, và anh chàng tài hoa Hoàng Thi Thao kéo violon thánh thót. Rồi vác ba lô tới cầu Bà Di đón quá giang đoàn quân xa “con voi” ra đơn vị ngoài Bồng Sơn, quận lỵ cực Bắc tỉnh Bình Định cách thị xã Qui Nhơn 90 km. Từ đó, chinh chiến làm bận bịu đời sống, tôi không có dịp gặp lại “ông thầy giáo cù lần”, nhưng rất đào hoa đắt đào nữa.
Năm 1973 tôi trình diện trễ khóa Chiến Tranh Chính Trị (CTCT) trường CTCT ở Đà Lạt. Đang xớ rớ cùng một anh bạn nữa cũng trễ khóa chờ sợ vụ lệnh trả về đơn vị thì gặp Phan Bá Phước, tự Minh Đạo. Phước hiền lành, điềm đạm và thật “cù lần”; anh đi học bằng xe đạp và ít giao du. Phước cho biết hiện là sĩ quan giáo sư môn Anh Văn tại trường Võ Bị Quốc Gia, CTCT, và một số các trung học ở thành phố Đà Lạt. Anh chở tôi và anh bạn trễ khóa về nhà đãi cơm trưa trên chiếc xe gắn máy cà tịch Suzuki đỏ. Tội nghiệp “con trâu già” cõng ba, ì ạch leo dốc. Phước hứa sẽ can thiệp với trường giúp tôi theo khóa học. Cuối cùng không kết quả, tôi cầm sự vụ lệnh về lại đơn vị, xui mà hên biết đâu sau khóa học, tôi chỉ được giữ những chức vụ “Phó Chiến Tranh Chính Trị” thì thật buồn.
Tôi còn nhớ nhiều nữa các bạn cũ cùng lớp, cùng niên khóa và niên khóa kế sau. Trương Gia Bình, Thành, Cúc nhà thật xa tận Phú lâm, Phạm Văn Xiếu, Võ Quang Liêm nhỏ con nên anh có biệt danh “Liêm kích tô”; Tống Tấn Võ, tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt và lẽ ra anh phải bị đuổi khỏi VN diện HO, mất ngày 16/9/2008 tại quê nhà. Mẫn, Giao, Đỗ Vinh gọi phản tướng Đỗ Mậu bằng bác. Võ Chí Tâm, Võ Chí Thành, Lân “què” kêu kép Hữu Phước bằng cậu, Thu con trai bà Liên Hiệp giàu có đi học bằng xe hơi mui trần. Khải, Khổng Hữu Trí cả hai bay khu trục; Gia, Lưu “mum-ba” tôi gặp trong khóa rừng núi sình lầy năm 1969 ở Dục Mỹ …
Trong bài “Trường Tôi” đăng trên Đặc San Hy Vọng 2010 có một điểm nhỏ không đúng, đó là đội banh Võ Trường Toản được Thầy Nguyễn Chi Hoa giao thiệp sao đó mà mười lăm cầu thủ được cấp thẻ đặc biệt vào bơi lội ở hồ tắm OSSU, góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và Hồng Thập Tự. Hồ bơi này chỉ dành riêng cho những học sinh trường Tây như Nhà Trắng St. Paul, Marie Curie, Taberd, … (Trên Đặc San 2010 ghi là Cercle Sportif Saigonnais (CSS), hồ tắm này nằm trong khuôn viên Tao Đàn, sát cạnh sân vận động Tao Đàn, chỉ dành cho ông tây bà đầm thôi).
Thứ Bảy, ngày … tháng … năm
Ông Thường và Dưỡng thân,
Gửi hai bạn hình ảnh tháp Eiffel, tọa lạc cạnh sông Seine, ngay trung tâm thủ đô nước Pháp, Paris. Tại cuối cây cầu ngắn bắc ngang sông, cách một con đường để vào địa phận hùng vĩ tháp nơi ông Bùi Cam, nhạc phụ tôi, năm 1963 đứng đó chụp một tấm ảnh. Gửi về chúng tôi và được quý giá cất giữ, dù gia đình nhiều lần chịu giông bão đời sống và lũ lụy thời cuộc dập vùi.
Năm 1986 sau hai năm tới Đức, chúng tôi dự chuyến du ngoạn đầu tiên bằng xe bus tới Paris. Vợ chồng tôi đứng ở cuối chân cầu, y chang điểm ông cụ đã đứng, bên kia đường là chân tháp hùng vĩ, nhộn nhịp người qua lại đã thấy trên ảnh cách nay 25 năm. Thằng con út 13 tuổi ngắm nghía bấm máy. Hình đẹp tương đối, đủ để lưu lại kỷ niệm khó nhòa.
Năm 2000 lần đầu tiên về thăm Việt Nam, chúng tôi tới Bình Long một ngày chói chan bụi mù nắng rát. Tỉnh lỵ Bình Long xưa nay là huyện lỵ An Lộc, tôi và đồng đội đã ở đó từ trước mùa hè máu lửa 1972 đến mùa xuân thê lương 1975. Ông ngoại các con tôi mất ngay ngày khởi đầu kinh khiếp trong tòa nhà “Tây” của đồn điền cao su Quảng Lợi.
Chúng tôi qua cầu Cần Lê, tới Lộc Ninh, quốc lộ 13 kéo dài đi Bù Đăng, Bù Đóp, Quảng Đức (tên cũ của một tỉnh lỵ) rồi tận Ban Mê Thuột trùng điệp núi rừng. Trên đường về lại Sài Gòn, chúng tôi dừng ở An Lộc, địa danh đã từng hứng một ngày hàng ngàn quả nổ, thăm nhà thờ có pho tượng Chúa Giêsu cụt đầu vì đạn pháo năm 1972, đến giờ sau 28 năm vẫn chưa trùng sửa, đứng lẻ loi giữa sân rộng. Thăm Xa Cam, Xa Cát cao su dầy đặc mịt mùng như rừng già nhiệt đới. Thăm cơ sở cao su quốc doanh Quảng Lợi, thăm bệnh viện Tỉnh và đồi Gió thấp thoáng phía xa gần như bị lẩn khuất trong tàn lá ngút ngàn. Tới ngã ba Chơn Thành, ngay xã Tân Khai, một ngã đi Tây Ninh, một ngã qua Sông Bé, một ngã xuôi nam về Lai Khê, Bình Dương, Bún, Lái Thiêu, qua họ đạo Fatima, rồi cầu Bình Triệu vào Sài Gòn.
Nơi đó, cách nay hơn 50 năm, thời học trò mộng mị, tôi và các bạn Chung tiệm điện, Xang Trưng Vương, Lê Quang Khuyến, Lưu Trí Nam, Võ Chí Tâm, Võ Chí Thành, Huỳnh Ngọc Oanh, Nguyễn Công Thiểm ... được Bảo hướng dẫn, đạp xe từ Sài Gòn lên vườn chôm chôm, măng cụt, mãng cầu, sầu riêng, dâu da. Ăn phủ phê đầy bụng mà chi trả không nhiều. Cũng thời học trò, tôi được Võ Quang Liêm rủ về quê anh ở Bún; tôi được Bùi Văn Tấn chở bằng xe gắn máy Goebel của Đức thăm quê ngoại anh ở Bưng cầu Bình Dương.
Cũng nơi đó, cách nay 37 năm, vào giữa tháng 3/1975, đơn vị tôi từ An Lộc di tản về Lai Khê, tới Bàu Lòng, đại đội tan tác thê lương. Tôi được tản thương bằng M113 về Bệnh Viện 4 Dã Chiến. Không còn gì nữa, chỉ còn những thương binh khốn khổ bạc phận, không lết nổi đành nằm lại. Và mảnh đạn pháo tai ương đến nay vẫn lưu lại trên cơ thể tôi. Mỗi lần chụp quang tuyến trị chứng đau lưng, các bác sĩ người Đức đều thẫn người thắc mắc về "miếng sắt" chỉ cách đốt xương sống cuối 1/3 mm.
Ông Thường và bạn Dưỡng thân,
Cóc chết ba năm quay đầu về núi. Những kể lễ không mạch lạc trên tôi cố moi trong trí nhớ, hình dung lại thời quá khứ gần như hầu hết bị xóa nhòa. Bây giờ già bất lực, gặp lại bạn cũ tuổi thơ cứ thích ôn kỷ niệm xưa, cứ muốn thăm thú những địa danh cũ chập chùng bi ai khốn đốn hoặc ngang dọc kiêu hùng.
Một đồng song già cỗi xa nhau gần 50 năm vừa tái ngộ. Một đồng môn trẻ tuổi sau hằng nhiều niên khóa mới quen. Cả ba chúng ta cùng một mái trường miệt mài đèn sách mong tạo dựng tương lai. Cả ba chúng ta cùng vẫy vùng dọc ngang oanh liệt trên mọi nẻo đường đất nước mến yêu, rồi thất thểu gẫy súng bi thương.
Giờ, hai anh già THA HƯƠNG VỌNG CỐ NHÂN, mùa Đông dài cổ ngán ngẩm chán nản nhìn tuyết rơi, mùa hè hưng phấn đợi gió lành nắng ấm. Anh bạn trẻ bên kia đại dương thẫn thờ chán chê cảnh sống giả tạo bấp bênh, ôm tìm kỷ niệm quá khứ, gom góp tình bạn thân yêu để che đi chuỗi đời kéo dài héo úa, bất hạnh kém may!
Đó là lý do thư này gửi cùng lúc một cố nhân già, một tri kỷ trẻ, kết tụ tương thân một thời hoa mộng sóng gió lãng mạng, nay trở nên muộn màng buồn thiu.
VTT Nguyễn Văn Liên (1955-1962)
Toenisvorst, Germany
thiminh_b@yahoo.de
04/04/2012