Trần A. Tuấn (68-75)
Giữa tháng 5, tình hình trở nên nghiêm trọng khác thường. Đài không còn các tiết mục văn nghệ thường lệ, thay vào tiết mục cách mạng. Sáng ngày 19, đang tụ tập với đám sinh viên láng giềng Đại Liên Lý Công Đại Học 大连理工大学 (đại học khoa học kỹ thuật Đại Liên), thì có người tìm tôi, bảo về văn phòng trường gấp. Về tới trường đã trưa, gặp 2 người Mỹ ở cửa văn phòng bí thư đảng ủy, đang chờ. Bắt tay giới thiệu, họ trình bày:
- Chào ông Trần, chúng tôi là nhân viên sứ quán Hoa Kỳ ở Thẩm Dương (Shenyang). Đến để báo ông tình hình chính trị TQ đang tới hồi gay gắt. Chính phủ Mỹ quan tâm sự an toàn cho mọi công dân Mỹ hải ngoại. Chúng tôi khuyên ông nên tạm thời rời TQ cho đến khi ổn định. Chính phủ Mỹ đã thuê bao một phi cơ dân dụng hiện đang đợi tại phi trường Đại Liên, sẵn sàng chở bất kỳ người ngoại quốc nào muốn rời TQ, không tốn tiền, nhưng ưu tiên công dân Mỹ. Máy bay sẽ cất cánh tối ngày mai đi Hong Kong.
Tôi ngỏ lời cảm ơn, và trình bày ý định muốn ở lại quan sát. Họ tôn trọng ý kiến, và đưa tấm danh thiếp:
- Nếu ông đổi ý. Đến cổng X sân bay thành phố, trình passport. Chỉ mang một hành lý nhỏ. Chúng tôi có tên ông trong danh sách. Còn như không phương tiện giao thông, xin gọi số này. Chúng tôi sẽ cho xe đến đón.
Đã trưa, và biết nhân viên lãnh sự ngồi đợi gần 3 tiếng, bí thư đảng ủy trường mời dùng cơm nhà ăn. Trong bữa, nhân viên lãnh sự trách nhẹ tôi khi đến TQ đã không đăng ký với tòa đại sứ hay lãnh sự, nên họ không biết tôi mà liên lạc. Họ bắt đầu thông tin cho công dân Mỹ trong vùng từ ngay sau khi Hồ Diệu Bang mất, vì đoán sẽ có bất trắc chính trị khi thấy sinh viên Bắc Kinh lục đục. Cho đến khi mẹ tôi ở Mỹ xem tin tức TV, không thấy tôi liên lạc, lo lắng gọi điện thoại bộ ngoại giao Hoa Kỳ nhờ tìm, khoảng ngày 15-16. Thì ngày 19, tòa lãnh sự phái nhân viên lái xe 7 tiếng trực chỉ học viện tìm mình. Sau bữa cơm trưa, tôi tiễn hai nhân viên lãnh sự nhã nhặn này ra xe. Rồi đứng tần ngần vài phút, ngẫm nghĩ. Thì ra mình là người Mỹ thật à? Cứ ngỡ trên giấy tờ cho hợp lệ thôi.
Tôi bỗng liên tưởng một chuyện. 1977, tôi nghỉ hè lái xe từ Lincoln, Nebraska đi Oklahoma. Trên đường ghé Topeka, Kansas, đổ xăng, gặp một cặp người Việt. Lúc đó, gặp người Việt quí lắm. Nhất là ở cái xứ đồng không mông quạnh này. Anh chị Thanh mời ghé nhà gần đó nghỉ chân chốc lát. Chị làm cơm. Câu chuyện đám dân Việt thời đó thường mở đầu là từ trại tỵ nạn nào đến, bảo trợ là ai… Anh chị kể rằng đến thẳng Topeka từ Sài Gòn:
- Tôi tốt nghiệp canh nông ở Kansas 1970. Năm 69, vợ tôi sinh thằng con ở Kansas. Nên nó công dân Mỹ. Về nước năm 71, tôi dạy nông nghiệp đại học nông lâm súc SG (cạnh Dược khoa, đối diện Văn khoa, đường Cường Để). Tôi có ghi tên con công dân Hoa Kỳ với tòa đại sứ Mỹ. Thế thôi, chẳng chi, chỉ là chú bé con. Tháng tư 75, tình hình chiến sự quanh SG sôi bỏng. Mình chỉ lo dạy học, không nghĩ phải đi đâu. Bất ngờ ngày 27, có tiếng gõ cửa rất khẩn. Mở cửa, ngạc nhiên thấy 2 người Mỹ dân sự, nhưng võ trang cùng mình súng ngắn súng dài. Họ tìm một công dân Mỹ sống địa chỉ nhà mình. Tôi biết ngay là thằng con 6 tuổi. Họ cho biết SG sẽ mất nay mai, họ cần phải di tản công dân gấp. Khi biết mình là cha mẹ chú bé. Họ mời chúng tôi đi theo “để chăm sóc”. Chúng tôi có 20 phút quyết định và thu xếp. Thế là đưa thẳng vào tòa đại sứ Mỹ. Đầu tháng 5, họ đưa sang Guam. Cùng ngày bất ngờ nhận tin sở nông nghiệp Kansas cho tôi làm kỹ sư. Sở nông nghiệp gửi vé máy bay đưa gia đình vào Kansas. Sau thì biết do nhân viên sứ quán giúp đỡ cả. Từ lúc vào tòa đại sứ Mỹ đến nhập cư Kansas, chuyển từ chuyên gia lúa nước sang kỹ sư canh nông chuyên trị lúa mì và bắp, chưa tới 10 ngày. Nghĩ lại vẫn còn shock.
Trở lại chuyện TAM. Ngày 20, tháng 5, một nhóm sinh viên trường đến tìm tôi rủ đi Bắc Kinh. Đây là lần thứ 3 sinh viên rủ tôi “đi chơi cho vui”. Hai lần đầu tôi từ chối vì mình nước ngoài, lại nữa đây xứ CS, không nên tùy tiện. Nhưng lần này cảm thấy hứng thú. Đi. Học viên trường đã có mặt tại TAM trên dưới 200. Đợt đi này có lẽ chuyến cuối, vì chính trị đang biến chuyển không thuận lợi cho di chuyển về “kinh”. Tối hôm đó, tụ tập khoảng 20 người, “hành quân” đến trạm hỏa xa, lấy chuyến đêm. Sáng 21, radio thông báo “thiết quân luật” quanh Bắc Kinh, khuyến cáo mọi người không nên vào kinh. Các sinh viên ngoài thành vào sẽ bị yêu cầu “ly kinh”, rời Bắc Kinh ngay tại trạm xe lửa. Học viên trưởng nhóm, sinh viên năm 4, trình tôi vấn đề, xin ý kiến. Tôi nói chỉ đi theo cho vui, vì người ngoài cuộc, anh em tự ý. Tôi cũng đang tự lo cho chính mình. Anh học viên trưởng nhóm bỗng đứng nghiêm: “Thầy tuy người nước ngoài, nhưng thầy chúng em. Xin thỉnh ý kiến. Nên về hay xông chạy qua rào công an”. Tôi hết sức bối rối. Bỗng một anh kêu lên mặc đồng phục, cho trông khác sinh viên, may ra không bị hỏi. Học viện theo chế độ “niên trưởng”, cấp lớp thấp phải phục tòng cấp lớp cao, trên là thầy hoặc huấn luyện viên, kỷ luật nghiêm khắc. Tôi gật đầu. Đồng phục vào, quả trông có khác, vì như đồng phục sinh viên sĩ quan hải quân. Chỉ khác huy hiệu, cầu vai. Chúng tôi lọt rào công an ở trạm hỏa xa trung ương, không bị hỏi giấy tờ.
Lúc này, bất kỳ người nào chỉ cần trình thẻ sinh viên, giáo chức là được đi xe lửa không tốn tiền ra khỏi thành phố Bắc Kinh. Còn vào phải có giấy phép. Một số lớn sinh viên lơi dụng dịp này đi chơi, về quê, lên xe lửa không tốn tiền chạy dọc ngang tổ quốc Trung Hoa.
Vào gần đến quảng trường, thấy đã có mặt bộ đội, xe tăng rải rác góc đường. Tuy nhiên bộ đội không mang súng. Ban lãnh tụ sinh viên phân chia một khoảnh cho học viện ngay sát trung tâm quảng trường. Gặp lại rất nhiều học viên Đại Liên. Ở gần đám lãnh tụ phong trào sinh viên như Wu’er Kaixi (Ngô Nhĩ Khai Hi) và Wang Dan (Vương Đan). Mình thầm nghĩ, ngay trung tâm nếu đụng trận có chạy đằng trời.
Sinh viên thời ấy nghèo lắm, làm gì có tiền mua đồ ăn. Quảng trường tụ tập cả trăm ngàn, đói cơm khát nước, chỉ mong lòng ưu ái của dân. Hàng ngày, từng xe thồ cơm, bánh bao, mì với dưa muối, nước, người dân Bắc Kinh đẩy vào cho sinh viên. Hàng rong bán rẻ. Biểu ngữ tung trời. Tụ tập diễn thuyết, ca hát, hò hét rầm rộ ngày đêm. Sinh viên làm cho tôi cái lều nhỏ, nhưng không sao chợp yên mắt nghỉ ngơi chút lát.
Công an thường phục rải dầy dặc. Phân biệt được vì họ hay chụp hình người trên đường phố, và chụp hình những ai mang máy chụp hình, và quay phim những ai thích nói. Sau này biết bao người bị công an địa phương bắt, vì những tấm hình, đoạn phim này công bố trên TV cho mọi người chỉ điểm. Khi đi, tôi tiếc quên mang máy chụp hình. Nghĩ lại, không mang máy đã giúp mình thong dong, tránh bị khó dễ.
Đã mấy ngày đêm quảng trường. Cứ thấy đói, như chó hoang, chạy ra góc đường tìm, có gì dân để đó thì bới ăn, chẳng hỏi han. Ăn toàn cơm với củ cải muối, bắt đầu ngán. Máu tiểu tư sản nổi lên, kéo vài thằng thân tín đi phố tìm quán. Những cặp mắt cú vọ theo dõi động tĩnh của thầy. Chỉ thầy có tiền. Thế lại bám dính15, 16 đứa. Tôi kéo đi ăn thịt dê nướng lề đường cho rẻ, không dám vào quán. Sau đó không dám đi ăn nữa. Chúng bám thì có cháy túi. Thôi, có chi ăn nấy. Có lúc, vài sinh viên ra gạ lương thực lính, mang về lều một đống bánh đậu xanh ém chặt, cứng như đá, ăn bùi bùi đổi vị. Uống một bụng nước chè, xong bữa, no khá lâu... Đi vệ sinh thì cập vào đâu đó nhà dân, nếu được thông cảm, còn nhà vệ sinh công cộng thì không tưởng tượng. Có những ban thiết lập nhà vệ sinh dã chiến. Cuộc chiến đấu “vệ sinh” quá ư là gian khổ. Một số sinh viên đã mệt mỏi, nhân dịp đi xe lửa không cần vé, bỏ về quê. Tôi mừng cho họ.
Đầu tháng 6, phát hiện bộ đội võ trang súng dài. Các cấp chỉ huy đeo súng ngắn. Quân xa khắp ngả. Lực lượng bộ đội dày đặc hơn, bao thành hành lang quanh quảng trường. Không khí ngột ngạt, khẩn trương. Linh cảm sắp có chuyện. Ngày 2, tôi rỉ tai học viên nên rút về. Không ai nghe, khí thế còn hăng. Sáng ngày 3, tôi từ giã, báo anh em mình đi Thiên Tân. Tôi bước qua vòng rào bộ đội, đi về hướng bến xe khách. Mua vé về cảng Đường Cô, độ 2-3 tiếng xe đò. Sáng ngày 4, Thiên Tân xuất hiên nhiều công an sắc phục khắp góc đường. Chiều ngày 4, thấy lục tục sinh viên chạy về cảng. Hỏi mới biết chiều ngày 3, bộ đội phong tỏa khóa rào quanh TAM, nội bất xuất ngoại bất nhập. Đêm ngày 3 rạng ngày 4, bộ đội hành động. Thảm khốc. Không biết gần trăm sinh viên trường ra sao. Tối ngày 4, tôi đáp tàu thủy về Đại Liên. Ngày 5, cập bến. Vừa bước khỏi cảng ĐL, vài công an sắc phục đến mời tôi theo họ.
Cuối tháng 8, chuẩn bị niên học mới, sinh viên quay lại trường. Kiểm điểm thấy đủ cả, bị thương vài ba mạng, không chết là may. Tôi lên giọng: “Trường huấn luyện thể lực các anh tốt. Cặp giò chắc chắn nên chuồn có phần mau lẹ, thoát được.” Cả bọn nhao nhao: “Trời, chân thầy còn lẹ hơn chúng em”.
Yên ắng 2 tuần, học viên tề tụ đủ mặt tại trường. Công an đưa xuống một danh sách câu lưu các học viên năng nổ, xuất đầu lộ diện diễn thuyết, kêu gọi, đòi hỏi dân chủ. Không khí nặng nề bao trùm. Toàn trường bước vào cuộc kiểm thảo kéo dài 2 tháng, từ tháng 9 đến tháng 11. Mọi người viết phê bình và tự phê bình. Kéo nhau lên hội trường thay phiên sỉ vả và tự sỉ vả, khóc lóc kể tội. Ngồi dưới thì khúc khích cười. Tôi cũng bị cuốn hút vào quan sát tấn kịch kiểm thảo.
Chuyện đã lâu. Nay nhớ lại vài lề, kể chia sẻ đám bè bạn thân thiết. Kèm vài tấm hình cũ xưa đã mờ, mới scan lại. (Cánh cổng phụ nay không còn, thay vào một cổng hoành tráng hơn. Tập hợp đại lễ, duyệt binh. Thực tập chạy ghe buồm thoát hiểm)
Trần A. Tuấn (68-75), Dallas, Texas
Chú Thích:
Cựu học sinh VTT lớp 68-75, Trần A. Tuấn, tốt nghiệp Thạc Sĩ về Computer Science, có thời kỳ được mời dạy học tại Hải Học Viện Đại Liên, Trung Quốc một thời gian dài trong thập niên 80.